(Chinhphu.vn) - Khâm phục trước tấm
gương quan Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu, nhân dân và sĩ phu Hà thành lập bàn thờ
ông bên cạnh vị quan tiền nhiệm Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt trên gò Đống
Đa.
Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, tự
Quang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1829) trong một
gia đình có truyền thống Nho giáo tại làng Xuân Đài (Diên Phước, Quảng Nam).
Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng
đốc Hà Ninh, quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận.
Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều
đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3
năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không
rơi vào tay giặc.
Quyết tử vì Hà Nội
Sau khi đại uý quân đội Pháp Garnier
cùng một phần toán binh sĩ chiếm thành Hà Nội trúng mưu Tôn Thất Thuyết và
Hoàng Tá Viêm, rơi vào ổ phục kích và tử trận, liệu đường không giữ nổi những
vùng đất Bắc đã chiếm đóng được, Pháp buộc phải kí hoà ước trả lại thành Hà Nội
và các tỉnh Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định cho Việt Nam. Tuy nhiên, chúng vẫn
giữ nguyên dã tâm tiến quân tái chiếm Hà Nội.
Việc trấn giữ thành Hà Nội trở thành nhiệm
vụ cấp bách, khó khăn và nguy hiểm. Nhiệm vụ ấy được vua Tự Đức giao phó cho
Hoàng Diệu – một vị quan được đánh giá là thanh liêm, chính trực, hết lòng hết
sức vì nước vì dân và từng lập được nhiều quân công.
Được phong làm Tổng đốc Hà Ninh, vừa ra
đến Hà Nội, Hoàng Diệu đã bắt tay ngay vào việc xây dựng, sửa chữa và củng cố
thành luỹ, huấn luyện binh sỹ sẵn sàng nghênh địch.
Nhận thấy lực lượng trấn thành binh mỏng,
vũ khí thô sơ, Hoàng Diệu nhiều lần dâng sớ xin triều đình chi viện. Nhưng
khi ấy, Pháp đã chiếm gọn Nam Bộ, triều đình ở Huế hoảng loạn, nội tình mâu thuẫn
rối ren, phe chủ bại lấn lướt phe chủ chiến. Bởi vậy, sớ dâng của Hoàng Diệu
không được hồi âm.
Lấy cớ ta không tôn trọng hiệp ước năm
1874 vì đã giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen ngăn trở việc giao
thông trên sông Hồng Hà và cấm đạo, Thống đốc Hải quân Pháp, Đại tá Henry
Rivière cho mấy tàu chiến cùng 4000 quân ra đóng tại Đồn Thủy (trên bờ sông Hồng
Hà phía Đông nằm sát Hà Nội) và cho quân lính đi phá rối, hăm dọa trên các đường
phố.
Lúc bấy giờ, các quan xung quanh Hoàng
Diệu có Tuần phủ Hoàng Hữu Xung, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển,
Án sát Tôn Thức Bá, và Lãnh binh Lê Trực. Tất cả đã cùng nhau uống rượu hòa máu
tỏ quyết tâm sống chết với thành.
Thấy rõ triều đình Huế đã rệu rã tinh thần
chiến đấu, ngày 25/4/1882, đại tá Henri Rivière nghênh ngang cho tàu chiến áp
sát thành Hà Nội, gửi tối hậu thư yêu cầu Tổng đốc Hoàng Diệu tự phá hệ thống
phòng thủ trong thành, giải giới binh sĩ và đúng 8 giờ, các vị quan trên dưới
trong thành phải ra trình diện, tạo điều kiện để quân Pháp vào thành “kiểm kê”.
Để tránh thương vong, Hoàng Diệu phái
quan Án sát Tôn Thức Bá đi điều đình. Nhưng Henri Rivière không hề đếm xỉa tới.
Đúng 8h15 phút, không thấy các quan thủ thành ra trình diện, Henri Rivière hạ lệnh
cho các tàu chiến nã pháo vào thành yểm trợ cho quân binh đổ bộ chiếm thành.
Thấy quân Pháp nã pháo vào thành, Tôn Thức
Bá hoảng sợ trốn chạy. Sau đó, người này thân tìm đến nơi quân Pháp đồn trú xin
thông báo tình hình trong thành hòng mong được người Pháp đoái công. Không những
thế, y một mặt dâng sớ lên Vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, một mặt xin với giặc
cho y làm Tổng Đốc Hà Ninh.
Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến
trưa. Quân ta, dưới quyền chỉ huy của Hoàng Diệu đã anh dũng chiến đấu, giết chết
hàng trăm tên giặc
Cuộc chiến đang ác liệt thì bất ngờ kho
thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt. Đám cháy càng lan rộng, tinh thần quân
Việt càng hoang mang, hàng ngũ càng rối loạn. Quân giặc thừa cơ bắc thang trèo
vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào như nước chảy.
Trong vòng khói lửa ngợp trời ấy, Hoàng
Diệu, tay vẫn cầm thanh kiếm tuốt trần, hăng hái xông pha trong mưa đạn.
Dù quyết tâm bảo vệ thành, nhưng trước
thế tấn công như vũ bão của quân Pháp và lực lượng quân triều đình ngày càng mỏng
hơn, cuối cùng, Hoàng Diệu đành hạ lệnh cho quân lính giải tán để tránh thương
vong.
Còn lại một mình, Hoàng Diệu quay vào
hành cung cắn đầu ngón tay lấy máu thảo di biểu tạ tội với nhà vua. Trong bức
di biểu, Hoàng Diệu viết:
“Thành mất không sao cứu được, thật hổ với
nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện theo Nguyễn
Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng...”
Sau đó, Hoàng Diệu đi thẳng đến cửa Võ
Miếu, cởi chiếc khăn đang bịt trên đầu, treo mình lên cành cây trước miếu mà tuẫn
tiết đúng vào giờ Ngọ. Khi ấy, ông mới 54 tuổi .
Khâm phục trước tấm gương quan Tổng đốc
Hà Ninh Hoàng Diệu thà chết chứ không chịu luồn mình dưới chân giặc, nhân dân
và sĩ phu Hà thành lập bàn thờ ông bên cạnh vị quan Tổng đốc tiền nhiệm Nguyễn
Tri Phương tại đền Trung Liệt trên gò Đống Đa.
Tôn Thất Thuyết – một đại thần nổi tiếng
theo đường lối chống Pháp – thương tiếc Hoàng Diệu mà viết lên đôi câu đối:
“Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi
sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc
khởi vô tâm”
Nghĩa là:
“Một chết đã thành danh, đâu phải anh
hùng từng nguyện trước
Bình sinh trung nghĩa, đương trường đại
cuộc tất lưu tâm”.
Ngày nay, tên của ông được chính quyền
và nhân dân thủ đô Hà Nội đặt cho con đường rất đẹp chạy phía tây thành cổ,
song song với phố Nguyễn Tri Phương. Bàn thờ ông cũng được lập bên cạnh bàn thờ
quan Tổng đốc tiền nhiệm Nguyễn Tri Phương trên vọng lâu Bắc Môn. Quanh người
dân khắp nơi đều tới thắp nhang tri ân hai vị anh hùng quên mình vì thành Hà Nội.
Đôi nét về thành Hà Nội thời Nguyễn
Thành Thăng Long đời Lý vẫn giữ nguyên vẹn
vị trí cũ cho đến đời Nguyễn. Núi Nùng (tức núi Long Ðỗ) vẫn là trung tâm của
thành qua bao thế kỷ. Bắc Môn được xác định chính là Cửa Bắc của thành Hà Nội
thời Nguyễn.
Khi nhà Nguyễn được thành lập, Thăng
Long từ vị trí Kinh đô của quốc gia trở thành trấn thành rồi tỉnh thành. Mất
vai trò trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế… các công trình trong Hoàng thành
cũng phải thay đổi quy mô.
Năm 1805, Gia Long cho xây dựng Kỳ Đài
(Cột Cờ) gần Đình bia. Năm 1831, Vua Minh Mạng ra lệnh hạ thấp tường thành và đổi
tên là thành Hà Nội.
Năm 1803, vua Gia Long lệnh phá bỏ thành
cũ có từ các triều đại trước đã bị hư hại nhiều, xây lại theo kiến trúc của
Pháp bằng đá tảng và gạch nung rất kiên cố, nhưng có tầm vóc nhỏ hơn thành của
những vương triều trước.
Năm 1848, Vua Tự Đức cho phá dỡ các cung
điện còn lại trong thành, những đồ chạm khắc mỹ thuật bằng gỗ, đá đều đưa về Huế,
chỉ còn sót lại rồng đá ở điện Kính Thiên…
Các công trình trong thành được bố trí kế
thừa những di tích xưa: Chính giữa vẫn là điện Kính Thiên. Thềm điện Kính Thiên
cao ba cấp, có chạm những con rồng bằng gỗ. Gần điện có Hành Cung là nơi vua ngự
mỗi khi kinh lý Bắc thành. Từ điện Kính Thiên đi ra là Đoan môn, cấu trúc gồm
ba cửa trong đó cửa chính giữa dành cho nhà vua, hai cửa nhỏ dành cho các quan
lại. Đàn Xã Tắc để tế trời đặt bên trái ngoài Đoan Môn cùng một Đình bia ghi
công trạng của vua Gia Long…
Tuy nhiên, Hoành thành lại bị hứng chịu
lần tàn phá cuối cùng khi quân Pháp tấn công Hà Nội vào cuối thế kỉ XIX. Quân
Pháp vào chiếm đóng, điện Kính Thiên bị phá để xây nhà chỉ huy pháo binh,
Đoan Môn bị sửa biến thành trại lính.
Đến năm 1893, thực dân Pháp lại quyết định
phá bỏ toàn bộ tường thành. Trong 62 năm (từ 1892 đến 1954) đóng quân, quân
Pháp đã biến Thành cổ Hà Nội thành một khu quân sự, một trại lính. Hầu như tất
cả các công trình cổ còn lại đã bị biến thành nhà ở hoặc phá bỏ lấy đất, gạch
xây các công trình quân sự, nhà ở cho các sĩ quan, binh lính, kho tàng…
Dấu vết còn lại đến hôm nay là Kỳ Đài (Cột
Cờ), Đoan Môn, nền điện Kính Thiên và Bắc Môn (Cửa Bắc) - cửa duy nhất còn lại
của thành Hà Nội thời Nguyễn, vẫn mang hoài dấu vết của đạn đại bác của Pháp bắn
từ tàu chiến trên sông Hồng, khi họ tấn công phá thành vào năm 1882, thời của Tổng
đốc kiên trung Hoàng Diệu…
Minh Thắng
http://thanglong.chinhphu.vn/Home/Hoang-Dieu--vi-Tong-doc-trung-liet-cua-Ha-Noi/20105/4909.vgp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét