Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

CHƯƠNG 1: CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC TỪ 1858 ĐẾN 1884

1. Tình hình Việt Nam trước năm 1858
1.1. Tình hình kinh tế, xã hội và sự suy vong của chế độ phong kiến
Trong hơn 50 năm cầm quyền (1802 - 1858), nhà Nguyễn đã giữ vững được nền độc lập, chủ quyền của  đất nước và đạt được những thành tựu về kinh tế, văn hóa nhất định. Tuy nhiên, sự lạc hậu về tư tưởng và những sai lầm trong chính sách đối nội, đối ngoại của triều đình nhà Nguyễn đã từng bước đẩy đất nước lâm vào tình trạng lúng túng vì tiềm lực dân tộc đã bị suy giảm nghiêm trọng, gần như kiệt quệ và khủng hoảng về mọi mặt: kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp sa sút, nhiều chủ trương của nhà nước.
Khả năng phòng thủ của đất nước giảm sút, quốc phòng yếu kém. Nhìn chung, quân đội thời Nguyễn khá đông và hùng hậu, nhưng lại chỉ chủ yếu được huấn luyện để đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân, dập tắt những phong trào đấu tranh của dân chúng chứ không huấn luyện nhiều để chiến đấu trên chiến trường chính quy. Thêm vào đó, tàu chiến ít và thô sơ, lực lượng lính thủy lại không chuyên nghiệp, hầu hết là tay ngang, không chịu được sóng gió trên biển. Binh khí thì thô sơ, chủ yếu là dao, gươm, đại bác và súng trường có ít và lại rất lạc hậu.
Tình trạng lạc hậu, khủng hoảng và suy yếu toàn diệN trên đã biến Việt Nam trở thành một “miếng mồi ngon” cho chủ nghĩa thực dân Phương Tây lúc bấy giờ.
1.2. Khủng hoảng chính trị và khởi nghĩa nông dân
Tuy có đạt được những thành tựu về kinh tế, nhưng đời sống của một bộ phân nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng, thêm vào đó là bộ máy chính quyền ngày càng quan liêu, tha hoá đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt dẫn đến làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp xã hội ở khắp mọi miền đất nước chống lại nhà Nguyễn. Chỉ tính riêng trong nửa đầu thế kỉ XIX đã có gần 400 cuộc khởi nghĩa, trong đó, thời Minh Mạng có 250 cuộc.
Những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821 – 1827) ở hạ lưu châu thổ sông Hồng (thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Quảng Ninh và Hải Phòng); khởi nghĩa Lê Duy Lương (1833 – 1834) ở Hoà Bình, Thanh Hoá; khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833 – 1835) ở Gia Định; khởi nghĩa Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833 – 1835); khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 – 1856) ở Hà Tây…
2. Âm mưu xâm lược Việt Nam của tư bản Pháp
2.1. Hoạt động của các giáo sĩ dọn đường xâm lược cho Pháp
Sang thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế tư bản. Sự phát triển này đã làm cho làn sóng xâm lược đến các nước Phương Đông vốn đã trỗi dậy từ cuối thế kỷ thứ XV càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhu cầu tìm nguồn nguyên liệu cũng như thị trường tiêu thụ hàng hóa của các nước tư bản phương Tây là nguyên nhân khiến cho hàng loạt các nước ở Châu Mĩ, Châu  Á và Châu Phi đều bị các nước tư bản Phương Tây xâm lược. Đến giữa thế kỉ XIX, một loạt nước châu Á đã  bị biến thành thuộc địa[1].
Trong cuộc chạy đua xâm lược thuộc địa, sau khi thất bại ở Cannađa, Ấn Độ, Pháp muốn xâm chiếm Viễn Đông, trước hết là Việt Nam. Từ giữa thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, nhiều thương nhân và giáo sĩ người Pháp đã đến Việt Nam, một số sau này trở thành lực lượng đi tiên phong trong cuộc chiến tranh xâm lược.
2.2. Hiệp ước 1787 và mưu đồ xâm lược Việt Nam của Pháp
Sau khi đã cầu cứu phong kiến Xiêm, để cho quân Xiêm tàn phá đất Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long rồi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), năm 1785 Nguyễn Ánh đã quay sang cầu xin bọn thực dân Tây Âu giúp đỡ.Tại thời điểm đó, chẳng những Pháp mà còn cả Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có phái nhân viên đến liên lạc với Nguyễn Ánh, đề nghị được “viện trợ”. Bản thân Nguyễn Ánh cũng có ý định sang Batavia (In-đô-nê-xi-a) để cầu viện Hà Lan hoặc sang Goa (Ấn độ) cầu viện Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng do có mối quan hệ từ trước, ông ta quyết định nhờ vả người Pháp.
Cuối năm 1784, được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh, Pi nhô đờ Bê hen (Bá đa lộc) đã đem theo ấn tín và người con trai của Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng Tử Cảnh) lúc đó mới 6 tuổi đi cầu viện Pháp. Trong một tài liệu nói về cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, được trích trong một bức thư do Bá Đa Lộc viết vào tháng 12/1784 có một đoạn như sau: ”Sau khi sửa chữa xong thuyền... chúng tôi giong buồm về đảo Pulo Punjan (Phú Quốc) để từ đó vượt qua vịnh Xiêm-la. Ở đây một lần nữa chúng tôi đã gặp nhà vua Đàng trong; ông kể lại cho nghe lí do vì sao ông đã sang Xiêm. Họ mượn cớ giúp ông trở lại ngôi vua và lợi dụng danh nghĩa ông để cướp bóc dân chúng. Chính vào thời điểm này, nhà vua đã giao cho tôi chăm sóc người con trai mới lên 6 tuổi mà tôi hiện đem theo đây... sau đó chúng tôi vượt vịnh Xiêm La đến Malaque ngày 19 tháng 12”.
Ngày 28/11/1787 giữa Pi-nhô-đờ-Bê-hen đại diện cho Nguyễn Ánh và Bá tước Mông-mô-ranh, đại diện cho Hoàng đế Pháp Lu-i XVI đã kí kết một bản hiệp ước mang tên “Hiệp ước tương trợ tấn công và phòng thủ” tại Véc-Xây, trong đó người Pháp cam kết gửi binh lính, lương thực, tầu bè, súng đạn sang giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền bính. Đổi lại, Pháp được sở hữu Đà Nẵng, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán tại Việt nam.
Hiệp ước 1787 đã không được thực hiện bởi lẽ ngay sau đó, vào năm 1789 cách mạng Pháp bùng nổ, người Pháp bỏ lỡ cơ hội can thiệp ngay vào Việt Nam. Tuy nhiên chúng vẫn không từ bỏ âm mưu của mình và âm mưu đó đã được coi là “quốc sách” để rồi hết chính phủ này đến chính phủ khác ở Pháp thay nhau theo đuổi.
Tuy chính phủ Pháp bỏ lỡ cơ hội để thâm nhập vàoViệt nam sau khi ký hiệp ước 1787 nhưng bọn tư bản Pháp ở Ấn Độ Dương vẫn ra sức ủng hộ kế hoạch của Pi-nhô-đờ-Bê-hen, bởi kế hoạch này nếu được thực hiện sẽ đem lại nhiều quyền lợi cho giới tư bản tài phiệt. Chúng đã gửi tàu chiến, sĩ quan, kĩ sư, binh lính, vũ khí đạn dược sang giúp Nguyễn ánh lấy lại đất Gia Định. Bản thân Pi-nhô-đờ-Bê-hen cũng tham gia chinh chiến trong đội quân của Nguyễn Ánh chống Tây Sơn từ Gia Định bến Bình Định cho đến chết như một viên tham mưu trưởng.
Sau khi đánh thắng Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn. Tuy vậy, nguy cơ bị Pháp nhòm ngó vẫn chưa hết.
Sau cách mạng Pháp và chiến tranh châu Âu kéo dài từ 1792 đến 1814 tình hình nước Pháp trở lại yên tĩnh. Giai cấp tư sản Pháp đã lớn mạnh, chúng tiếp tục tìm cách xâm nhập Việt Nam.
Năm 1812 Na-pô-lê-ông Bô-na-pac sau khi xem các giác thư của bọn thực dân hoạt động tại Viễn Đông đã ra lệnh nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787). Song ngay năm sau, Hoàng đế Na-pô-lê-ông đệ nhất bị đổ - âm mưu xâm lăng Việt nam của Pháp vì thế chưa thực hiện được.
2.3. Chính sách “bế quan, tỏa cảng” và cấm đạo Kitô của nhà Nguyễn
Trong chính sách đối ngoại, nhà Nguyễn chủ trương thần phục nhà Thanh. Năm 1803, Gia Long cử sứ bộ sang Trung Quốc xin quốc hiệu và cầu phong. Năm sau, nhà Thanh sai sứ sang phong vương cho Gia Long. Từ đó nhà Nguyễn phải định kì cống nạp. Ngược lại, các vua Nguyễn lại sử dụng lực lượng quân sự bắt Cao Miên và Lào thần phục, thậm chí có lúc còn thiết lập chế độ bảo hộ ở Cao Miên.
Đối với các nước phương Tây, trong giai đoạn đầu, Gia Long thi hành chính sách tương đối cởi mở với Pháp và đạo Thiên Chúa. Nhưng sang đến thời Minh Mạng (1820 – 1840), triều Nguyễn khước từ dẫn những quan hệ với phương Tây, thậm chí bắt đầu thi hành chính sách đàn áp Thiên Chúa giáo và “đóng cửa”, ngăn cản ảnh hưởng của người phương Tây trên đất Việt Nam. Nhà Nguyễn ngày càng tỏ ra bảo thủ, đưa đất nước lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu đến nỗi suy kiệt khả năng tự vệ.
3. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
3.1. Quân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng năm 1858
Giữa thế kỉ XIX, mâu thuẫn Pháp – Anh tạm lắng để liên minh xâu xé Trung Quốc, từ năm 1856, chính phủ Pháp quyết định đem quân đánh chiếm Việt Nam. Cuộc xâm lược được dọn đường bằng một loạt các hành động khiêu khích của Pháp: cho tàu chiến đến Đà Nẵng, đưa quốc thư, nổ súng bắn phá các đồn lũy của ta trên bờ (9/1856); cho tàu tới xin truyền đạo (1/1857)… Cuối cùng Na-pô-lê-ông III quyết định đưa quân tới Việt Nam, Pháp còn kêu gọi Tây Ban Nha phối hợp hành động. Chiều 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo tới cửa biển Đà Nẵng, chuẩn bị nổ súng xâm lược Việt Nam.
Sáng 01/9/1858, Pháp đưa thư buộc quân triều đình phải nộp thành, nhưng không đợi trả lời, Pháp nổ súng tấn công và cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình chiến đấu dũng cảm tại Cẩm Lệ nhưng không cản được địch. Hành động ăn cướp của Pháp đã làm dấy lên phong trào đấu tranh bảo vệ Tổ quốc mạnh mẽ trong nhân dân.
Triều đình cử Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam, ông huy động nhân dân đắp lũy không cho Pháp tiến sâu vào nội địa, nhân dân làm “vườn không nhà trống”, gây cho Pháp nhiều khó khăn. Suốt 5 tháng liền, Pháp bị giam chân tại chỗ, lực lượng hao mòn do thiếu lương thực, thuốc men, thời tiết.
Từ Nam Định, đốc học Phạm Văn Nghị dẫn 300 quân chi viện cho Đà Nẵng, đội nghĩa binh của Phạm Gia Vĩnh đã phối hợp chiến đấu với quân triều đình.
3.2. Thực dân Pháp xâm lược Nam Kì từ 1859 đến 1862
Do bị sa lầy tại Đà Nẵng, tháng 02/1859 Pháp đưa phần lớn quân vào Gia Định mở mặt trận mới. Chúng tập trung tại Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ ngược lên Sài Gòn, quân ta chống trả mạnh mẽ nên phải mất một tuần Pháp mới tới Gia Định. Sáng 17/02, Pháp đánh thành Gia Định và đến trưa chiếm được thành. Tuy nhiên sau đó Pháp vấp phải những khó khăn mới, các đội nghĩa quân ngày đêm bám sát, bao vây, tiêu diệt địch, hoảng sợ Pháp phá thành Gia Định và rút xuống tàu chiến.
Lúc này do Pháp bị sa lầy ở chiến trường Italia và Trung Quốc nên một phần quân ở Gia Định và Đà Nẵng phải tiếp viện, chính vì vậy số quân Pháp còn lại ở Việt Nam chỉ khoảng 1000. Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương được điều vào mặt trận Gia Định, ông huy động quân xây dựng Đại đồn Chí Hòa với mục đích ngăn chặn Pháp đánh rộng ra.
Sau khi tình hình chiến sự ở Trung Quốc tạm ổn, tháng 02/1861, Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa, quân ta chống cự quyết liệt nhưng cuối cùng Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị thương, thừa thắng Pháp chiếm các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, Biên Hòa.
Nhân dân Nam Kì đã đứng lên chống Pháp. Nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đánh đắm tàu Hi vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông.
4. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kì
4.1. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và trách nhiệm của Triều Nguyễn
Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân lên cao thì triều đình kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) gồm 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như: nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn, bồi thường 280 lạng bạc, mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt (ở giữa địa phận Thái Bình và Nam Định) cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha buôn bán.
Trách nhiệm của Nhà Nguyễn trong việc kí kết hiệp ước Nhâm Tuất?
4.2. Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân
Hiệp ước cắt đất cầu hòa của triều đình đã gây bất bình trong nhân dân và sĩ phu, họ bày tỏ thái độ của mình bằng nhiều cách như: Nguyễn Đình Chiểu làm thơ cổ vũ tinh thần yêu nước, còn Trương Định tiếp tục kháng chiến, ông kháng lệnh của triều đình, giương cao cờ “Bình tây Đại nguyên soái”, lấy căn cứ Tân Hòa (Gò Công) làm đại bản doanh chống Pháp. Khi bị thương ông đã rút gươm tự sát không chịu rơi vào tay giặc (8/1864). Con trai của ông là Trương Quyền tiếp tục lên Tây Ninh tiếp tục sự nghiệp của cha.
Kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây
Lấy cớ triều đình ủng hộ nhân dân kháng chiến, chỉ trong vòng 5 ngày từ 20 đến 24/6/1867, quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Tuy nhiên nhân dân miền Tây vẫn anh dũng đứng lên chống Pháp, tiêu biểu có 2 con của Phan Thanh Giản là Phan Tôn, Pham Liêm. Nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã chiến đấu với tinh thần: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam…” Các cuộc chiến đấu lớn kéo dài đến 1875 mới bị dập tắt.
5. Thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm Bắc Kì và Trung Kì (1873 - 1884)
5.1. Pháp gây hấn Bắc Kì lần thứ nhất và Hiệp ước Giáp Tuất (1874)
Sau khi chiếm 6 tỉnh ở Nam Kì, Pháp chuẩn bị kế hoạch tấn công Bắc Kì, một mặt chúng củng cố bộ máy cai trị, mặt khác thực hiện “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Trong khi đó triều đình Huế vẫn thi hành những chính sách thiển cận (bồi thường chiến phí, khước từ đề nghị cải cách, bỏ bê sản xuất), đời sống của dân sa sút, một loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, tệ hại hơn triều Nguyễn vẫn muốn thương lượng với Pháp.
Để thực hiện âm mưu xâm lược, Pháp tung gián điệp đội lốt giáo sĩ ra do thám tình hình miền Bắc, tích cực gây cơ sở nội ứng trong một bộ phận dân chúng. Tháng 11/1872, Đuy-pi tự tiện cho tàu ngược sông Hồng lên Vân Nam buôn bán khi chưa được phép của triều đình, y còn có nhiều hành động ngang ngược như bắt người xuống tàu giam giữ, cướp phá tài sản của nhân dân...
Trái với lẽ thông thường, triều đình Nguyễn không những không có biện pháp cứng rắn mà vua Tự Đức còn ra lệnh cho Nguyễn Tri Phương không được làm “mất lòng” người Pháp. Tệ hại hơn, nhà Nguyễn còn yêu cầu phía Pháp cho người ra Bắc giải quyết vụ Đuypuy. Chớp thời cơ, thực dân Pháp điều đại úy Gácniê tức tốc đem quân ra Bắc. Tháng 11/1873 ra đến Hà Nội, y hội quân với Đuypuy và chuẩn bị kế hoạch tấn công ta.
Mờ sáng ngày 20/11/1873, 200 quân Pháp đánh thành Hà Nội, thành mất, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương và sa vào tay giặc, ông nhịn ăn, nhịn uống cho đến chết. Ngay sau đó Pháp đánh chiếm nhiều nơi, chỉ trong vòng ba tuần lễ, các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc Bộ lần lượt rơi vào tay Pháp.
Không chịu khuất phục, nhân dân các tỉnh bị Pháp chiếm đóng đã tự đứng lên tổ chức đánh Pháp. Ngày 21/12/1873, Pháp định tiến ra vùng Hoài Đức, đến Cầu Giấy thì bị ta phục kích, chỉ huy quân Pháp là Gácniê bị giết tại trận. Thất bại ở Cầu Giấy làm cho quân Pháp hoang mang lo sợ, nhưng triều đình Huế lại bỏ lỡ cơ hội, ra lệnh rút quân lên Sơn Tây, và tiếp tục ký kết hiệp ước ngày 15/3/1874 mang tên “Hiệp ước hòa bình và liên minh”. Theo Hiệp ước này, Pháp rút quân khỏi Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ, nhưng triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp ở 6 tỉnh, mở các cảng Thị Nại (Quy Nhơn), Ninh Hải (Hải Phòng), Hà Nội và sông Hồng cho Pháp được tự do buôn bán, triều đình Huế không được ký hiệp ước thương mại với nước khác trái với quyền lợi của Pháp mà không cho Pháp biết trước.
5.2. Hiệp ước Hác-măng (1883), Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) và việc thiết lập ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam
5.2.1. Tình hình nước ta sau Hiệp ước 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất)
Pháp rút quân nhưng không từ bỏ âm mưu thôn tính miền Bắc. Triều đình nhà Nguyễn vấp phải sự phản ứng quyết liệt của nhân dân và một bộ phận quan lại phong kiến. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, trong khi đó ở miền Bắc bọn thổ phỉ ra sức hoành hành ở vùng biên giới. Triều đình Nguyễn phải cầu cứu nhà Thanh và Pháp giúp đỡ. Đất nước rơi vào cảnh rối ren cực độ.
Trong vòng 10 năm kể từ khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất, nhiều sĩ phu có tâm huyết đề nghị duy tân, cải cách đất nước nhưng đều bị cự tuyệt[2]. Kết quả là tình hình đất nước ngày càng suy yếu, đời sống nhân dân cơ cực, trong khi đó các nước đế quốc đang tiến nhanh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa… tình hình đó thôi thúc Pháp hành động để chiếm lấy nước ta.
5.2.2. Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai (1882 - 1883) và cuộc kháng chiến của nhân dân Bắc Kì, Trung Kì
Những năm 70 của thế kỉ XIX, yêu cầu thị trường không còn là mưu đồ của một nhóm hiếu chiến mà trở thành chủ trương chung của giới tư bản tài phiệt đang nắm quyền tại Pháp. Bắc Kì dân đông, tài nguyên phong phú là miếng mồi ngon không thể bỏ qua.
Để can thiệp vũ trang, Pháp lấy cớ triều đình Huế không thi hành đúng các điều khoản Hiệp ước 1874, vẫn tiếp tục giao thiệp với Trung Quốc, ngăn người Pháp không cho đi lại buôn bán, cấm và giết đạo... ngày 3/4/1882, Rivie đưa 500 quân Pháp tiến ra Hà Nội.
Sáng 25/4/1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu buộc phải nộp thành cho chúng, hạn chưa hết, Pháp nổ súng chiếm thành. Hoàng Diệu viết tờ di biểu bằng máu gửi triều đình, sau đó tuẫn tiết trong vườn Võ Miếu (dưới Cột Cờ Hà Nội).
Trước hành động ăn cướp trắng trợn của Pháp, triều đình Huế hoang mang, khiếp sợ, Tự Đức cầu cứu nhà Thanh. Chớp cơ hội này, nhà Thanh đưa quân sang nước ta nhưng không chống Pháp mà thương lượng với Pháp nhằm chia xẻ quyền lợi ở Bắc Kỳ. Tự Đức tiếp tục lệnh cho quân đội chính quy ngoài Bắc rút lên mạn ngược, giải tán các đội vũ trang địa phương. Vì vậy tháng 3/1883, Pháp cho quân đánh chiếm vùng mỏ Hồng Gai và Quảng Yên, sau đó đánh chiếm Nam Định. Như vậy, đây là lần thứ hai phần lớn các tỉnh miền Bắc rơi vào tay Pháp. Bất chấp thái độ của triều đình Nguyễn, trong khi Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng chúng bị nhân dân ta chặn đánh quyết liệt buộc Rivie phải về chốt giữ thành Hà Nội. Ngay tại Hà Nội, Pháp cũng bị nghĩa quân áp sát uy hiếp.
Sáng 19/5/1883, quân Pháp tiến lên Sơn Tây, đến Cầu Giấy chúng rơi vào trận địa phục kích của ta, nhiều sĩ quan và binh sĩ Pháp bị giết và bị thương, Rivie chết tại trận, số còn lại chạy thục mạng về thành. Quân Pháp hoang mang dao động, đô đốc mới thay Rivie định bỏ Hà Nội, Nam Định về cố thủ tại Hải Phòng. Trận thắng thứ hai ở Cầu Giấy làm nức lòng nhân dân cả nước, nhưng triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng điều đình để lấy lại Hà Nội.
5.2.3. Pháp tấn công Thuận An. Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884)
Ngày 17/7/1883, vua Tự Đức qua đời, triều đình nhà Nguyễn rơi vào tình trạng chia rẽ lục đục. Bọn Pháp thừa thời cơ đánh thẳng vào cửa biển Thuận An.
Ngày 18/8/1883, hạm đội Pháp nổ súng tấn công Thuận An, ngày 20/8 Thuận An rơi vào tay Pháp, triều đình Huế hốt hoảng cử người xin đình chiến. Ngày 25/8/1883, Cao ủy Pháp Hácmăng đưa ra một bản điều ước thảo sẵn buộc triều đình Huế phải chấp nhận ký kết với các điều khoản chính như:
Thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, khu vực của triều đình Huế thu hẹp từ Khánh Hòa đến Đèo Ngang. Đại diện của chính phủ Pháp (Khâm sứ Pháp) tại Huế có quyền gặp vua bất cứ lúc nào.
Công sứ Pháp ở các tỉnh ngoài Bắc Kỳ thường xuyên kiểm soát công việc của triều đình, trực tiếp nắm việc trị an và thuế vụ. Mọi việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm. Triều đình Huế phải gọi toàn bộ số quân đã gửi ra Bắc Kỳ về.
Hiệp ước Hác-măng đã vấp phải sự phản ứng quyết liệt trong dân chúng. Bất chấp việc bãi binh của triều đình, nhiều quan lại không chịu về kinh đô, kiên quyết chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc như Tạ Hiền, Nguyễn Thiện Thuật… hành động này đã có ảnh hưởng đến phái chủ chiến trong triều. Phía Pháp cũng thấy rằng không thể chấm dứt chiến sự bằng Hiệp ước Hácmăng, từ tháng 12/1883, khi có thêm viện binh, thực dân Pháp tổ chức nhiều cuộc hành quân ở miền Bắc, đi đến đâu, quân Thanh rút đến đó. Chỉ có quân của Lưu Vĩnh Phúc ở miền Bắc lúc này là trở ngại lớn nhất với quân Pháp.
Từ đầu năm 1884, tình hình chiến sự ở miền Bắc diễn ra ác liệt, trong khi đó quân Thanh cam kết với Pháp là sẽ rút khỏi miền Bắc. Trên đà thắng thế, ngày 6/6/1884, Chính phủ Pháp đã buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt gồm 19 điều khoản. Điều ước này giống như điều ước 1883, nhưng trả lại cho triều Nguyễn các tỉnh Bình Thuận và Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh hòng xoa dịu tinh thần đấu tranh, sự căm phẫn của nhân dân và mua chuộc, lung lạc quan lại triều đình Huế.  Điều ước 6/6/1884 đặt cơ sở lâu dài cho nền thống trị của Pháp ở Việt Nam. Đến đây giai cấp phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp.
Sau hiệp ước Nhâm Tuất (1862), 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ thuộc Pháp; đến năm 1867 cả 6 tỉnh Nam kỳ được đặt tên là Cochinchine Francaise. Sau Điều ước Giáp Tuất (1874) Bắc kỳ được đặt dưới chế độ bảo hộ và từ Hiệp ước 1884 thì Trung kỳ trên danh nghĩa trở thành xứ nửa bảo hộ nhưng thực tế là một xứ được bảo hộ hoàn toàn như Bắc kỳ.



[1] Năm 1822, Anh ký hiệp ước thông thương với Xiêm. Hai năm sau (1824), Anh tấn công Miến Điện và xúi giục vua Xiêm đánh vào biên giới Miến - Xiêm, tạo thuận lợi cho Anh tấn công Miến Điện. Năm 1827, Anh lại ký một hiệp ước buộc Xiêm phải cho người Anh đến buôn bán tự do ở một số bang. Ngót 80 năm sau, Anh chiếm luôn những bang này của Xiêm và sáp nhập vào Mã Lai.
Đối với Mã Lai, từ đầu thế kỷ XIX, Công ty Đông-Ấn của Anh đã chiếm dần những cứ điểm quan trọng trên bán đảo này nhằm giành ưu thế thương mại và quân sự ở Viễn Đông. Năm 1819, công ty này giành được ưu thế chiếm đóng Singapore có vị trí chiến lược trọng yếu trên đường hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Năm 1824, Anh mua toàn bộ Singapore với giá 6 vạn đồng Tây Ban Nha và liên tiếp vừa mua vừa chiếm nhiều vùng khác (Pénang, Kuala-Lumpur…). Đồng thời, Anh thương lượng với Hà Lan đổi nhượng Malacca, một trung tâm kinh tế chính trị quan trọng của Mã Lai. Năm 1826, thực dân Anh gộp Singapore, Pénang, Wellesley thành một khối, gọi là “Đất thực dân eo biển”, dưới quyền quản trị của Công ty Đông-Ấn, đặt thủ phủ tại Kuala-Lumpur.
Cho đến đầu thế kỷ XIX Miến Điện là một nước quân chủ mạnh trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII, sau khi nắm được Ấn Độ, Công ty Đông-Ấn của Anh bành trướng sang vùng Bengale tiếp giáp Miến Điện. Đặt xong một số thương điếm ở gần thủ đô Rangoun (Miến Điện), năm 1792 thực dân Anh yêu cầu triều đình Miến Điện chấp nhận Công ty Đông-Ấn hưởng đặc quyền buôn bán và đặt cơ quan thường trú. Bị vua Miến Điện khước từ, thực dân Anh quyết định thực hiện yêu sách trên bằng vũ lực vào đầu thế kỷ XIX.
[2] Những đề nghị canh tân đất nước của một số quan lại triều đình: Triều đình Huế đã mất Nam Kỳ là một sai lầm lớn. Tuy vậy triều đình vẫn không có biện pháp hữu hiệu để giữ 2/3 đất nước còn lại, mà chỉ lo chuộc đất dấy nghiệp ở Gia Định. Triều chính không được sửa sang, chính sách kinh tế - xã hội không hề được thay đổi, việc đối nội đối ngoại cũng chưa có chuyển biến nào đáng kể. Tình hình đất nước nói chung vẫn trì trệ, mâu thuẫn xã hội vẫn ngày càng tăng lên, tổ quốc không có khả năng tự vệ trước họa xâm lăng từ phương Tây.
Sau khi thực dân Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), tình hình kinh tế xã hội nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng. Trước nguy cơ quân Pháp mở rộng xâm lược ra cả nước, nhà Nguyễn càng tỏ ra lúng túng trong việc phòng thủ. Suốt 10 năm đối phó với ngoại xâm (1858 - 1867), việc tổ chức, trang bị, huấn luyện quân đội vẫn không có cải tiến gì. Công bằng mà nói, vua Tự Đức đã cho lập thêm nhiều đơn vị “hương binh” ở một số tỉnh, sửa sang các thành lũy từ Bình Thuận trở ra, cử một số võ quan trấn thủ những nơi xung yếu, bố trí thêm đại bác, súng đồng ở cửa Thuận An…
Ở Bắc Kỳ, đời sống nhân dân khốn đốn vì luôn bị nạn đói, nạn dịch, bão lụt đe dọa, nhất là từ khi Nha Đê chính bị bãi bỏ (1861). Liên tiếp hai năm 1867, 1868, các tỉnh trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Kỳ bị bão lụt lớn, nhân dân xiêu tán. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Quảng Bình, Quảng Trị năm 1870.
Kinh tế nông nghiệp sa sút kéo theo sự đình đốn của công thương nghiệp. Nhiều đô thị suy tàn dần, giao thông thương mại đường biển nằm trong tay Chiêu thương cục của nhà Thanh. Những cố gắng bình ổn giá cả và đo lường không còn hiệu quả. Nha Bình chuẩn thành lập theo sáng kiến của Phan Huy Chú chỉ tồn tại mấy năm, rút cục cũng bị bãi bỏ. Vua Tự Đức và triều thần tiếp tục chủ trương “đóng cửa”, khước từ mọi quan hệ giao thương với nước ngoài.
Bấy giờ có tàu buôn nước Anh đến cửa Thị Nại (Bình Định) xin thông thương, có sứ thần của Tây Ban Nha đến Huế trình quốc thư (4 -1870), có lãnh sự Phổ ở Hồng Kông liên hệ với Nha Thương bạc xin giao hảo…, nhưng đều bị triều đình bỏ qua không xét hoặc không trả lời.
Tình hình tài chính ngày một kiệt quệ do chi phí chiến tranh và bồi thường chiến phí cho thực dân Pháp buộc nhà Nguyễn phải tăng các sắc thuế (1867), bán ruộng công làm ruộng tư (1869), kể cả bán quan mua tước để tăng thu nhập. lại thêm nạn thổ phỉ (từ biên giới phía bắc tràn sang) gây tai họa cho nhân dân Bắc hà.
Những đám “giặc khách” Cờ Trắng, Cờ Vàng cùng cướp biển “tàu ô” mặc sức tung hoành khắp thượng du, trung du và ven biển Bắc Kỳ. Vua Tự Đức phải thu nạp tướng Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc) và cầu viện quân nhà Thanh ở Quảng Đông (lực lượng Phùng Tử Tài), hy vọng giải quyết rối loạn ở Bắc Kỳ.
Nắm được tình trạng suy nhược cao độ của triều đình Huế, thực dân Pháp càng xúc tiến ý đồ mở rộng xâm lược ra phía bắc, thậm chí biến vua nhà Nguyễn thành lực lượng hỗ trợ nhằm “đặt Bắc kỳ dưới quyền đô hộ của Pháp, mà chính phủ Pháp không phải tốn một người hay một xu nào”, như lời đô đốc Dupré báo cáo về bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp.
Không thể bó tay nhìn đất nước lâm nguy, nhiều sáng kiến đổi mới đất nước được đề xuất lẻ tẻ trước kia trở thành một trào lưu canh tân trong những năm 60 của thế kỷ XIX. Nhiều người trong giới quan lại, sĩ phu ở các địa phương, trong đó có những người từng đi ra nước ngoài quan sát, tiếp xúc, học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật châu Âu, trở về suy ngẫm trăn trở trước tình hình đất nước. họ mạnh dạn đề xuất những biện pháp khá toàn diện nhằm đổi mới nền kinh tế, chính trị, xã hội, mong thoát khỏi nguy cơ mất nước.
Tháng 9/1868, sau khi công cán ở Hồng Kông về, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế nêu sáng kiến xây dựng hải cảng để “tìm cách mưu lợi ích lâu dài”. Cuối năm đó (11/1868), Đinh Văn Điền mật trình một số sáng kiến khác có hệ thống hơn, gồm ba điểm chính: Nâng cao hiệu quả chiến đấu của binh lính; Cho dân gian được học binh thư binh pháp và Hạn chế sự lệ thuộc chính quyền các đô đốc ở Nam Kỳ bằng cách đặt quan hệ đối ngoại với nước Anh.
Đinh Văn Điền còn đề nghị các biện pháp mở mang kinh tế như khai thác khoáng sản, tận dụng ruộng đất bỏ hoang, đóng thuyền máy hơi nước, lập thương quán ở các nước, mời chuyên viên kỹ thuật các nước đến giúp, không để Pháp độc quyền…
Năm 1872, Nha Thương bạc (cơ quan đối ngoại của nhà Nguyễn) xin mở các cửa cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Đồ Sơn, áp dụng chính sách “chiêu thương khai cảng”. Triều thần bàn luận sôi nổi, nhưng rút cục đa số đã bác bỏ đề nghị này, cũng như đã bỏ qua các đề nghị canh tân trước đó, cho là “chưa hợp thời thế”.
Tiêu biểu cho phong trào cải cách bấy giờ là hệ thống điều trần nổi tiếng của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871). Ông quê ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi (1847) ông quyết định đi sâu tìm hiểu những thành tựu khoa học châu Âu, bắt đầu bằng những tri thức thu lượm được tại chủng viện Xã Đoài. Sau đó ông tìm cách đi du lịch Hồng Kông, Sin-ga-po rồi sang Pháp (1858) lưu học ở Paris hai năm.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước, trước sau gửi lên triều đình Huế một hệ thống sáng kiến canh tân bao quát mọi lãnh vực. Quan điểm tư tưởng nổi bật của Nguyễn Trường Tộ là sự lên án mạnh mẽ ý thức hệ Khổng giáo lỗi thời mà nhà Nguyễn đang cố sức duy trì. Xuất phát từ quan điểm này, ông đề xuất những biện pháp cải cách cụ thể về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, tôn giáo, văn hóa giáo dục ….
Về nông nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nêu rõ sự lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp ở nước ta, đề nghị mở trường nông chính để phổ biến khoa học kỹ thuật nông nghiệp, đi sâu cải tiến kỹ thuật canh tác để tiếp cận những thành tựu thế giới. Ông đặc biệt nhấn mạnh vấn đề trị thủy sông Hồng và vấn đề thủy lợi nói chung.
Nguyễn Trường Tộ đặt niềm tin vào triển vọng công nghiệp hóa đất nước trên cơ sở bốn nguồn lợi lớn (hải lợi, lâm lợi, thổ lợi, nhất là khoáng lợi) một khi được khai thác khoa học bằng những phương tiện cơ giới hiện đại. Muốn vậy, việc đào tạo một đội ngũ nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến là vấn đề bức xúc. Bản thân ông đã trực tiếp thăm dò và lập bản đồ khoáng sản nước ta. Ông đề nghị học tập kinh nghiệm các nước để phát triển ngành luyện kim, xây dựng các nhà máy để kỹ nghệ hóa mọi nguồn lợi núi rừng, sông biển.
Về thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh vị trí ưu việt của nước ta trên thương trường quốc tế, vì vậy phải “mở cửa” để lưu thông trong ngoài nước. Triều đình cần nắm vững hoạt động nội, ngoại thương, muasắm tàu thuyền, khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh. Mặt khác cần đắp đường sá, khơi vét sông ngòi, mở mang đô thị để phát triển lưu thông nội địa. Ông phản đối quan điểm cho rằng “mở cửa biển tức là mở cửa đón kẻ cướp vào”, ông chứng minh nguồn lợi ngoại thương to lớn một khi biết cách khai thông đất nước.
Để cứu vãn tình hình tài chính nguy ngập, Nguyễn Trường Tộ đề nghị điều chỉnh các sắc thuế nông công thương nghiệp, đo đạc lại ruộng đất, điều tra lại dân số, giải quyết nạn chiếm đoạt, bỏ hoang ruộng đất, nghiêm trị quan lại hào cường tham nhũng. Mạnh dạn hơn, ông đề nghị vay tiền ngân hàng nước ngoài để mở mang kỹ nghệ.
Về văn hóa, xã hội, Nguyễn Trường Tộ chủ trương cải cách văn tự trên cơ sở bảo vệ tiếng mẹ đẻ, cấm lưu hành các sách hoang đường, dị đoan, lập viện dục anh, trang trại tế bần, hội từ thiện, cải tạo côn đồ, du đãng, sửa đổi phong tục tập quán, bài trừ tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện…), xây dựng nếp sống văn minh.
Nguyễn Trường Tộ đặc biệt lưu ý vấn đề giáo dục. Ông đề xuất một chương trình cải cách hoàn chỉnh về giáo dục nhằm xóa bỏ tư tưởng tự mãn và thủ cựu, xây dựng một lối học thiết thực, hiện đại. Bên cạnh tri thức văn học, phải đưa vào nhà trường các môn luật học, y học, sinh ngữ, nông học v.v…, nói chung là những tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, phải gắn học với hành nhằm ích quốc lợi dân. Phải kết hợp đào tạo nhân tài cả trong và ngoài nước, cử nhiều người xuất dương du học. Tóm lại, theo ông, giáo dục là quyết định, giáo dục suy đốn thì quốc gia suy đốn.
Tóm lại, đứng trước hiện tình đất nước như vậy, ngay trong triều đình ở Huế cũng có nhiều người đưa ra những bản “điều trần” và sáng kiến để canh tân đất nước, tự cường dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế, Đinh Văn Điền, Nguyễn Trường Tộ và cả Viện Thương Bạc, ai ai cũng tâm huyết với vận mệnh đất nước. Điều trần của Nguyễn Trường Tộ gồm 14 tập là một hệ thống những sáng kiến, cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Song triều Huế và bản thân vua Tự Đức bảo thủ đến mức phản động, khi họ ra các chiếu, dụ khiển trách mọi điều trần và cải cách.
Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về hai mặt tiến bộ và hạn chế trong những điều trần cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên, đã có sự nhất trí cao khi khẳng định toàn bộ điều trần cũng như bản thân cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chứng minh tâm huyết của một trí thức yêu nước chân chính, có vốn tri thức sâu rộng, nhận rõ nhu cầu canh tân đất nước, thiết tha tìm lối thoát giải nguy tổ quốc.
Thế nhưng tại sao nhà Nguyễn không tiếp nhận những điều trần của Nguyễn Trường Tộ? Có ý kiến cho rằng nguyên nhân thất bại của Nguyễn Trường Tộ nằm trong một loạt những mâu thuẫn (mâu thuẫn trong vị thế của ông, trong tình cảm của ông và ngay cả trong chủ trương cải cách của ông). Lại có ý kiến nhận thấy những điều trần của Nguyễn Trường Tộ không có gì xa vời, ảo tưởng, mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta bấy giờ. Nhưng nhiệt tình và tài năng Nguyễn Trường Tộ đã bị bỏ qua, chỉ vì “điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét