GS. Vĩnh Sính
Khoa Lịch sử và Kinh điển, Đại học
Alberta, Canada
Tóm
tắt
Trong
hoàn cảnh đất nước tan thương dưới sự đô hộ của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ
19- đầu thế kỷ 20, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại
hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn
giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của
hai nhà chí sĩ họ Phan trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác
nhau, thậm chí có khi tương phản. Sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai
nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa
- thành công cũng như thất bại – vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.
Trong
khuôn khổ bài này, chúng ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào đầu thế kỷ XX.
Khoảng hơn một trăm năm trước, khi tại
các quầy rượu, quán cà-phê ở những thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương
vào cuối thế kỷ XIX như Paris, Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau
đàm luận về những tư trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ
thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism)
hay trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên
kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm dài mất
nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết đến.
Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng
ở Vũ Quang do Phan Đình Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính
sách của toàn quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên
của xứ thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 ở
Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long Biên sau
này), Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế và tài chánh cho nước
Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải chịu cảnh tôi đòi ngay chính
trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như
sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương, nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô
lệ”!
Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế,
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu
trong vận động giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế
kỷ XX. Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan
trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi
tương phản. Sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai nhận vật kiệt hiệt này,
chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa – thành công cũng như thất
bại – vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.
Trong khuôn khổ bài này, chúng ta hãy
thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
trong hành trình dân tộc vào đầu thế kỷ XX.
“Gọi
hồn nước”
Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng
duy tân từ Nhật Bản dội sang nước ta qua những “tân thư” (sách mới) và “tân văn”
(báo mới” của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những
trang sách “tân thư” và “tân văn” mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo
rực của cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính
biến (1898) ở Trung Quốc.
Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến
các học thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên
nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ
(Voltaire), v.v… Từ chỗ “ếch ngồi đáy giếng thấy bao nhiêu trời”, họ bắt đầu có
tầm nhìn “doanh hoàn” (toàn cầu) – dĩ nhiên điều này không có nghĩa là ai
ai nay cũng có thể nhìn một cách khách quan về đất nước hay về thế giới bên
ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua (survival of the
fittest) qua thuyết tiến hóa xã hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin)
mà ngày đó hãy còn gọi là thuyết “vật cạnh” (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), “thiên
diễn luận” (sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết “tự do đào thải”,
khiến họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.
Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự
truyện: “Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở
trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu
sâu sắc hơn”[1]. Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài “Đề tỉnh quốc
dân ca” (không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:
Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ,
Nòi giống ta biết có còn không?
Nòi giống ta biết có còn không?
Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu
thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong
việc thức tỉnh hồn nước. Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với
người đọc không chỉ vì những dòng thơ Phan Bội Châu mang nhạc điệu trầm hùng
thiết tha, khi rạo rực sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan Bội Châu nói lên thường
khơi dậy nỗi nhục mất nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc.
Những câu sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ
là đối với độc giả sống trong tình trạng “mất nước” vào đầu thế kỷ XX:
Lời huyết lệ gửi
về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ…
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau…
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ…
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau…
(“Hải hoại huyết thư” (1906), Lê
Đại dịch)
Hoặc giả:
Than ôi ! Lục tỉnh
Nam Kỳ,
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không.
Mịt mù một dải non sông,
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai…
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không.
Mịt mù một dải non sông,
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai…
(“Ai cáo Nam kỳ phụ lão” (1907),
Phan Bội Châu tự dịch)
Trong bài “Sinh vãn cụ Phan Sào Nam”
(1940), Huỳnh Thúc Kháng đã diễn tả một cách sống động về sức rung cảm lòng người
của ngòi bút Phan Bội Châu:
Miệng giọng cuốc
vạch trời kêu giật một,
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
Do ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu,
mà “hàng nghìn thanh niên đã cắt cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử
cùng cái mộng công danh nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con,
rồi băng ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua
Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây” [3].
Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của
Phan Bội Châu không chỉ giới hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa đầu
thế kỷ XX, mà ngay cả trong thời gian “đất nước phân kỳ”, bất luận Nam Bắc, văn
thơ Phan Bội Châu đã khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh
niên.
Ý
thức “Quốc gia Quốc dân”
So với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm
ý thức về vận mệnh đất nước và cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu
với các vấn đề liên hệ đến Việt Nam như là một “quốc gia quốc dân” (nation-state).
Vì từ “quốc gia quốc dân” (hay “nhà nước
quốc dân”) vẫn chưa được nhắc đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh
Việt hay Pháp Việt, v.v… xuất bản ngày nay, ta thử tạm mượn định nghĩa của từ
này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản – một ngôn ngữ có nhiều từ vựng hiện
đại “xuất cảng” sang chữ Hán chế tạo tại Nhật Bản (Wasei-Kango, tức Hoà-chế
Hán-ngữ) rồi đi vào tiếng Việt Nam vào buổi đầu thế kỷ XX:
Kokumin kokka (“Quốc-gia quốc-dân”,
hay “nhà nước quốc dân”): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở
của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ
đại-từ-điển], Tokyo: Kōdansha, 1989, trang 691).
Ngay từ hồi chưa xuất dương, Phan Bội
Châu đã từng đi chu du nhiều nơi trong nước – miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế
vào Nam Ngãi, Bình Phú, rồi Gia Định, cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền
Bắc từ Nam Định, Hà Nội, lên tận rừng Yên Thế của Đề Thám – nhằm tìm cách kết
giao đặng mưu đồ việc nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các “hảo
hán” trong giới “lục lâm giang hồ” sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ
Đông Du (1905-1909), hàng ngày tiếp xúc và lo việc ăn học cho các thành viên từ
Nam chí Bắc, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng thuận giữa
người Việt với nhau do một lý do khá đơn giản: đây là lần đầu tiên các thanh
niên này có dịp tiếp xúc, đối thoại và sinh hoạt với nhau.
Trong Việt nam quốc sử khảo (1908),
Phan nêu lên 5 điều khiếm khuyết trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau,
coi trọng những điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v …),
biết lợi mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi
chung, biết thân mình mà không nghĩ đến việc nước [4].
Ý thức “quốc gia quốc dân” trong tư
tưởng cũng như hành động của Phan Bội Châu phải nói là một sự đề kháng đối với
chính sách “chia để trị” của chính quyền đô hộ, khác hẳn với đầu óc địa phương
hẹp hòi thường thấy ngay ở các nhân vật tai to mặt lớn. Bình tình mà nói, bệnh
chia rẽ, óc địa phương không chỉ do chính sách cai trị của người nước ngoài, bởi
lẽ ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn không thấy những biện
pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ “ăn cây nào, rào cây ấy” hay tình
trạng “phép vua thua lệ làng”. Đóng góp của Phan Bội Châu trên mặt này ngay từ
hồi đầu thế kỷ XX đúng là một điểm son đáng trân trọng, cần được ghi nhớ.
Cũng cần để ý rằng “vong quốc” (mất nước),
“đồng bệnh” (cùng bệnh) và “quang phục” (khôi phục vinh quang đã mất) là những
từ thông dụng trong thuật ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam – ba
nước “cùng mang bệnh mất nước” – vào đầu thế kỷ XX. “Vong quốc” ở đây có nghĩa
là mất độc lập, mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: “Gọi là một nước thì
phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không
đủ tư cách làm một nước” [5].
Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà những
nỗ lực khôi phục độc lập ở ba nước Đông Á nói trên thường lấy tên “quangphục”:
vận động lật đổ triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc do Thái Nguyên Bồi (Cai
Yuan-pei) khởi xướng năm 1904 lấy tên là Quang Phục Hội (về sau gia nhập Đồng
Minh Hội của Tôn Dật Tiên); ngày Hàn Quốc lấy lại độc lập và thoát khỏi ách
cai trị của người Nhật gọi là ngày Kwangbok (tức Quang Phục, 15/8/1945); và cái
tên Việt Nam Quang Phục Hội do Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập ở Quảng
Đông (1912) cũng không ngoài nghĩa đó.
Việt
Nam – Từ Quân chủ tới Dân chủ
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt
Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ
giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang Phục Hội.
Quốc hiệu “Việt Nam” nguyên đã có từ đầu
thời vua Gia Long, nhưng trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép
là vua Gia Long lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt,
nhưng vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại
chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh
triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu
Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6]. Bước sang thế kỷ XX, trong
khi người nước ngoài đều dùng tên “An Nam” để chỉ nước ta, theo thiển ý của
chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ
khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan Bội Châu đã dùng tên Việt Nam trong các
trước tác viết trong thời kỳ Đông Du: Việt Nam vong quốc sử(1905), Tân
Việt Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?) hay Việt Nam
quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở
trên, Phan Bội Châu cùng đồng chí cũng đã dùng tên Việt Nam (thay vì An Nam
hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam Quang Phục Hội vào năm 1912.
Tuy Quang Phục Hội có một lịch sử đáng
chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu
sau đây có thể tìm thấy ngay trong cuốn Tự phán (hay Phan Bội
Châu niên biểu) chứ không phải tìm đâu xa xôi.
Trước hết, Quang Phục Hội không chỉ là hội
đoàn theo nghĩa thông thường mà trên hết thực tế là một “chính phủ lâm thời”
lưu vong, có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang Phục Quân), quân kỳ,
và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng “quân dụng phiếu”) “in bằng điện, tinh xảo
như giấy bạc Tàu”. Quang Phục Hội cũng đã quy định lá quốc kỳ đầu tiên của Việt
Nam. Theo lời kể lại của Phan Bội Châu, “một sự quái lại” là trước đó “nước ta
chỉ có cờ hoàng đế mà không có quốc kỳ”. Bởi vậy, Quang Phục Hội mới “chế định
cờ ngũ tinh” (năm ngôi sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ
này có hình liên kết với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt
Nam, cộng thêm Lào và Cămpuchia (!). Quốc kỳ Quang Phục Hội có nền vàng, tượng
trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao biểu tượng
cho vị trí phương Nam của nước Việt (“Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng”).
Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau là thay vì hồng tinh
(sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng), nhằm “tỏ rõ mục đích” của Việt
Nam Quang Phục Quân là “cốt đánh đổ chính phủ người da trắng”.
Tôn chỉ “độc nhất” của Quang Phục Hội là
“khôi phục nền độc lập của Việt Nam” và thành lập một nước “cộng hòa dân quốc”.
Nói một cách khác, với sự thành lập của Quang Phục Hội, lần đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ “được xác định”.
Dĩ nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối
của Quang Phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi “ngọn cờ quân chủ” (mà Phan Bội
Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là
do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch
sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu
báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra
trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.
“Bạo
động kịch liệt” và bế tắc
Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan
Châu Trinh là duy tân để tự cường rồi mới dành độc lập, Phan Bội Châu chủ
trương bạo động, một phần vì bản tính (“sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp
khích” [8]) và một phần do áp lực của “bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ
Tĩnh… hối thúc tôi trong việc quân giới” [9].
Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng
phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan Bội Châu, là phương cách duy nhất
để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan Bội Châu cho rằng người Việt
tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ
Phan Bội Châu và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì
Nhật là nước “đồng văn đồng chủng” mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị
nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan Bội Châu chuyển hướng, muốn liên
kết với các nước “đồng bệnh” – trước hết là Trung Quốc – chống lại “cường
quyền”. Tuy nhiên, suốt đời Phan Bội Châu không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism),
tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước “đồng văn đồng chủng” như Trung
Quốc, Nhật Bản… thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan
Bội Châu vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể nói một trong những lý do khiến
Phan Bội Châu thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế người lãnh đạo một
phong trào chống Pháp, Phan Bội Châu không bao giờ có ý định tìm hiểu về người
Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa “kẻ thù của địch là bạn ta”, Phan
Bội Châu ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với các nước mà Phan coi là có quyền
lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ: Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật
Bản.
Phan Bội Châu cả tin và chủ quan về những
“nước bạn”, rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao
“Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng” (hoặc
“Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo”), Phan Bội
Châu tưởng rằng những “nước bạn” sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận
trong tình huống nào và vô hình trung cho rằng “Pháp là nước duy nhất có ý đồ
xâm chiếm Việt Nam”.
Vì Phan Bội Châu hoạt động trong giai
đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối hàng ngũ người Việt
trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật ngữ Phan Bội Châu dùng
có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói trạng thái tâm
lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra
mãi cho đến gần đây.
Chủ trương bạo động của Phan Bội Châu
tùy thời điểm có mức độ khác nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ
quân sự chống lại Pháp, Phan Bội Châu gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời
khuyên chí tình của họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên
sang Nhật du học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: “Quý quốc chớ lo không có
ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập… Thực lực của
quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”. Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời
gian mà chính Phan Bội Châu xem là “đắc ý” nhất trong đời, Phan Bội Châu vẫn
còn vương vấn với khuynh hướng “bạo động” nên cũng không hết lòng tin tưởng vào
vai trò của giáo dục. Phan Bội Châu mượn câu nói của Mã-Chí-Nê (Mazzini) làm
chủ thuyết của mình: “Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh hành” (Giáo
dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10]. Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật
(1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về Quảng Đông thành lập Quang Phục
Hội (1912), Phan Bội Châu chủ trương “bạo động kịch liệt” nhằm “tìm cái sống
trong muôn vạn cái chết” và những mong bạo động sẽ là “môi giới để cải lương
giáo dục”!
Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của
Phan Châu Trinh là “Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử” (Không nên cậy vào nước
ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và “ỷ Pháp
cầu tiến bộ” mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền
thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng
bước phục hồi nền độc lập quốc gia.
Khi bị tù ở Côn Đảo từ 1908 cho đến
1910, Phan Châu Trinh đã từng nói: “Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ
cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò ‘đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai’, không ích
gì… mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan là cái
gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp” [11].
Phan Châu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên
hô hào dân quyền ở nước ta [12], đặc biệt sau khi đi Nhật Bản (1906) về.
Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân
sinh” và chủ trương “tự lực khai hóa” không phải vì ươn hèn sợ hãi, mà bởi vì
ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp, trong tình trạng như vậy thì dầu có
giành được độc lập “cũng không phải là điều hành phúc cho dân”.
Phan Châu Trinh là người quả cảm, có khí
phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra một chủ thuyết khác hầu hết
mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động
nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc
vào đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của Phan Bội Châu, đã học tại những trường
quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động
hay binh biến lẻ tẻ, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng
tác với chính quyền thuộc địa, v. v.. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu
Trinh đã viết: “Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem
trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí
thức cao lên để tranh giành với Pháp” [13].
Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện Tự
phán mà tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi
già, Phan Bội Châu đã ghi lại: “Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy
với tôi mà kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào… Anh em
chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở
ra một lối thành công sau…”. Phan Bội Châu khuyên đồng bào nên xem cuộc đời họat
động của mình như một “chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm cảnh giác” (tiền xa
phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời này của Phan Bội Châu
nên được xem như là những lời phản tính và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại
hào kiệt “có lòng thương nước” nhưng vô tình đã “không biết cái đạo thương nước”.
Bình luận về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
đã có những nhận xét sắc bén và thẳng thừng như sau: “Ông Phan Bội Châu tư chất
thông minh, chí khí rất to lớn, sớm có quan niệm quốc gia. Trong thời đại nước
Việt Nam chuộng khoa cử, ông cũng là người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những
dụng công rất nhiều, lòng tự tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm
cùng tập quán của dân tộc Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể
cho ông là người xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam.” Hoặc giả:
“Ông là người lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, ưu điểm và nhược điểm đã hun
đúc thành con người đó” [14].
Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh cùng các sĩ phu khác vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay
người Việt. Nhưng vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Châu Trinh hằng nhắc
nhở từ đầu thế kỷ vẫn là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến
tranh. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất
nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai
nhân vật kiệt hiệt của đất nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình
dân tộc trong hơn 100 năm qua lại khác nhau như âm với dương.
Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức
tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu, nhưng đồng thời cần
nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ, dân
trí và dân sinh. Làm việc đó đã có tiếng nói hùng hồn của Phan Châu Trinh. Bởi
vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa
hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.
Tài
liệu tham khảo
[1] Tự
phán (tức Phan Bội Châu niên biểu) (Huế: Nhà xuất bản Anh Minh,
1956), trang 27. Khi trích dẫn từ sách này, chúng tôi đã tham khảo nguyên văn
chữ Hán và đôi khi đã sửa đổi vài chỗ trong bản dịch quốc ngữ cho sát với
nguyên văn và nghe thuận tai hơn.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, “Huỳnh Thúc Kháng – Con người và thơ văn” (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278.
[2] Xem Nguyễn Q. Thắng, “Huỳnh Thúc Kháng – Con người và thơ văn” (Sàigòn: Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa, 1972), trang 278.
[3]
Đặng Thai Mai, “Văn thơ Phan Bội Châu” (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, 1967),
trang 105.
[4]
Xem “Việt Nam quốc sử khảo”, trong “Những tác phẩm của Phan Bội Châu” (Hà Nội:
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
[5]
Như trên, trang 217.
[6]
Xem Kawamoto Kunie, “Etsunanjin no ketsudan” (Quyết đoán của người Việt), trong
cuốn Kanji minzoku ketsudan(Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do
Hashimoto Mantaro, Suzuki Takao và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo: Taishūkan
Shoten, 1987), trang 481.
[7]
Về các tư liệu trích trong phần này, xem Tự phán, trang 146-154.
[8]
Như trên, trang 150.
[9]
Như trên, trang 51.
[10]
Như trên, trang 53.
[11]
Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại (Sàigòn: Nam Cường,
1951), trang 105.
[12]
Xem Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng,
1995), trang 107.
[13]
Phan Châu Trinh, Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam (Nước Việt
Nam mới sau khi liên hợp với Pháp), bản chụp di cảo của Phan Châu Trinh,
không đánh số trang. Nhiều sách về Phan Châu Trinh in lầm ‘liên hợp’
thành ‘liên hiệp’.
[14]
Như trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét